Theo lịch can chi thì một vòng quay thời gian của địa chi cứ 12 năm trở lại năm tuổi, căn cứ vào chu kỳ đó người ta chia đời người thành những giai đoạn như sau: Từ khi sinh ra đến năm 12 tuổi gọi là thời kỳ chưa trưởng thành, từ tuổi 37 trở đi được phân ra làm bốn chu kỳ: Chu kỳ thứ nhất từ tuổi 37 đến 49 gọi là chữ Phúc; Chu kỳ thứ hai từ 49 đến 61 gọi là chữ Thọ (tuổi hoa niên); Chu kỳ thứ ba: từ 60 đến 73 gọi là chữ Khang (tuổi thịnh niên); Chu kỳ thứ tư từ 73 đến 85 gọi là Ninh (tuổi đại niên).
Thông thường bắt đầu từ tuổi 49 ở chu kỳ thứ nhất con người đã có biểu hiện của tuổi già như mắt kém tinh, răng kém chắc, tóc điểm bạc... Sở dĩ có những biểu hiện về sức khỏe trên, người ta cho rằng bịch gạo mệnh đã úa vàng... nên phải tổ chức lễ Pủ Liềng, bổ thêm lương cho bịch gạo mệnh được đầy, bắc lại cây cầu cho vững chắc, trồng lại cây mệnh xanh tươi... Ý nghĩa của lễ là trình xin hai vị Nam Tào, Bắc Đẩu ra hạn thêm cho đương sự sống ở trần gian một thời gian nữa. Trong lễ người ta mời bà then, ông giàng, ông tào đến hành lễ.
Diễn biến của lễ như sau: Con cháu, họ hàng mang gạo, rượu, tiền, quần áo, khăn, mũ, một bức trướng bằng vải màu, phụ thuộc vào tuổi của người được làm lễ mà người đến mừng chọn màu vải và viết nội dung bức trướng cho phù hợp. Nếu là người 49 tuổi thì viết chữ Phúc, 61 tuổi viết chữ Thọ, 73 tuổi viết chữ Khang, 85 tuổi viết chữ Ninh...
Nghi lễ Tẳng lường (Dựng lương): Trong nhà dựng một dàn cúng dưới chân bàn thờ, bên cạnh lập một cái lẩu vàng, cao 40cm, hình lăng trụ, bên ngoài dán giấy hồng điều, tượng trưng cho bịch gạo số mệnh. Dùng cọng lá chuối làm chiếc thang, nếu đàn ông là 7 bậc, nữ là 9 bậc - tượng trưng là cây cầu mệnh. Gạo còn cả hũ mang đến đổ vào thúng đặt bên ngoài gần cửa ra vào. Từ thúng gạo đến lẩu vàng trải một tấm vải đen trắng tượng trưng là chiếc cầu nối từ hạ giới lên thiên đình. Trên mặt vải đặt những chiếc đũa hình chữ chi cùng vàng mã tượng trưng là những thanh cầu và tiền hành lộ.
Tiếp đến là “Pố lương” (cho gạo vào lầu): Thầy tào, bà then niệm chú vào thúng gạo rồi xúc gạo vào bát kèm theo vàng mã và ít tiền lẻ để cho con cháu ngồi hai bên tấm vải chuyền tay nhau đổ vào lầu vàng. Dâng rượu đốt đèn: Ông bà, con cháu ngồi bên lầu vàng, con cháu dâng rượu, bà Then, thầy Tào đọc thần chú, đốt đèn - tượng trưng phát ánh sáng tinh thần minh mẫn. Con cháu dâng khăn mũ, giày, vòng hộ mệnh và hát bài mừng thọ: “Ông bà được 61, cả con gái, con trai lấy tiền tài mừng thọ, mười người mười đấu gạo, chín người chín gói tiền, đem về đây mừng thọ...”.
Sau đó là Hoàn phúc: Khi lẩu vàng đã đầy, số gạo còn lại trong thúng lẫn với những đồng tiền được thầy tào ban lại cho con cháu coi như lộc của ông bà, bố mẹ.
Lảm lường (buộc lương): Khi hành lễ xong mọi người ăn uống vui vẻ. Sau khi ăn uống, bà Then lại mời con trưởng tới để nhận lễ, người con trưởng nhận lễ và đặt chiếc lầu vàng lên bàn thờ và buộc vào lầu ba sợi chỉ màu. Sợi chỉ màu đen, Ông bà sống lâu; Sợi chỉ màu trắng, Con cháu yên bình, an phúc; Sợi chỉ màu đỏ, Con gái vóc nước thanh hoa, Con trai khôn ngoan chữ giỏi. Bà Then thắp hương, rót rượu để người con trưởng dâng lên các vị thánh thần, sau đó vẩy rượu khắp bốn phương cầu cho gia đình bình an, cả năm con cháu làm ăn suôn sẻ. Người ta còn hình dung cuộc đời người đi qua trên cây cầu mệnh bằng gỗ. Thời gian qua, cây cầu bị mục gãy nên phải sửa sang bắc lại cầu cho chắc chắn. Thầy tào, bà then cho đẽo hai thanh gỗ dài khoảng 40 cm, rộng khoảng 8 cm, hai đầu chốt hai đinh bằng gỗ có đệm hai mảnh vải nhỏ trắng đen. Sau lễ, cây cầu mệnh tượng trưng này được đem đóng ở góc vườn.
Cuối cùng là trồng cây mệnh: Cây mai hoặc cây chuối bứng cả rể được đem trồng vào góc vườn có rào cẩn thận và được chăm sóc cho cây mọc xanh tốt. Trong trường hợp khô hạn để đảm bảo cây mọc người ta thắp hương vào một cây chuối trong vườn lấy cây đó là cây mệnh. Người ta tin rằng những thứ đó có tác dụng hộ mệnh linh hồn sẽ thoải mái đi trên chiếc cầu, con đường rợp bóng mát sẽ tránh được mệt mỏi ốm đau...
Cũng như một số dân tộc, lễ mừng thọ của người Tày, Nùng là một sinh hoạt văn hoá tốt đẹp, thể hiện lòng biết ơn, kính trọng, sự quan tâm của cộng đồng cũng như báo hiếu của con cháu đối với người cao tuổi, ông bà, cha mẹ. Hiện nay, việc tổ chức mừng thọ tuổi 49 hầu như đã bỏ, thường chỉ tổ chức mừng thọ từ 61 tuổi trở đi. Khi tổ chức lễ, có gia đình đón thầy cúng về làm lễ, có gia đình lại không, tùy cỗ mừng to, nhỏ cũng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi gia đình. Đặc biệt, lễ mừng của họ hàng, người thân mừng bằng rượu, gạo và bức trướng nay cũng bớt đi rất nhiều... Tuy có những nét khác nhau về vùng miền, cách tổ chức nhưng điểm chung của lễ mừng thọ của người Tày, Nùng vẫn luôn là nét văn hóa truyền thống đáng quý, thể hiện đạo hiếu của con cháu đối với các bậc sinh thành. Trên bình diện xã hội, thì lễ mừng thọ còn góp phần xây dựng nền tảng đạo đức, lối ứng xử đầy tình nghĩa giữa con người với con người. Nên một trong những giá trị văn hoá dân tộc - nghi lễ mừng thọ là việc làm cần được bảo tồn, gìn giữ.
Nguồn tin: Cổng thông tin điện tử Cao Bằng
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn